Văn hóa dân gian sưu tầm ở Mường Lay

GS.TS. Lê Hồng Lý – Viện Nghiên cứu Văn hoá.

I. Đôi nét về Mường Lay

Mường Lay là một thị xã nằm ở phía bắc tỉnh Điện Biên, được đổi tên từ thị xã Lai Châu (cũ) theo Nghị định 25/2005/NĐ-CP ngày 2 tháng 3 năm 2005 về việc đổi tên thị xã Lai Châu cũ thành thị xã Mường Lay và huyện Mường Lay thành huyện Mường Chà. Phía bắc giáp tỉnh Lai Châu (mới), các phía còn lại giáp huyện Mường Chà. Thị xã này được thành lập ngày 8 tháng 10 năm 1971 với tên gọi là thị xã Lai Châu từ thị trấn Lai Châu, 2 xã Lay Cang (trừ bản Pháy Mày), xã Lay Tở (trừ bản Nậm Ty), và bản Nậm Cản thuộc xã Lay Nưa, tất cả đều thuộc huyện Mường Lay khi đó. Trước ngày 18 tháng 4 năm 1992 là tỉnh lỵ tỉnh Lai Châu cũ. Sau khi chia tách tỉnh Lai Châu cũ thành hai tỉnh mới là Lai Châu (mới) và Điện Biên thì từ ngày 2 tháng 3 năm 2005 có tên là thị xã Mường Lay(1). Tại thời điểm năm 2007, thị xã Mường Lay có 11.403,5 ha diện tích tự nhiên và 14.379 nhân khẩu, có 3 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm 2 phường và 1 xã:

– Phường Sông Đà

– Phường Na Lay

– Xã Lay Nưa

Phường Na Lay có 9 bản và 13 tổ dân phố gồm: Bản Đớ, Chi Luông, Nghé Toong, Na Lác, Nậm Cản, Quan Chiên, Hốc, Bó, Xá Đán (bản này có từ thời Đèo Văn Long).

Phường sông Đà chỉ có một số tổ dân phố 4, 5 (ngập ít), từ tổ 1-14 di dời hết.

Xã Nay Lưa có các bản: Mo, Ổ, Bắc 1, 2, Naka còn các bản khác chỉ có vài hội ngập, sẽ vén lên. Thị xã Mường Lay trước đây là thủ phủ của tỉnh Lai Châu, nằm trong thung lũng của dòng Nậm Lay chảy ra sông Đà. Đây là vùng khí hậu khá mát mẻ và dễ chịu. Mùa lạnh không lạnh như Sìn Hồ, mùa nóng không nóng như Điện Biên. Khi đập thuỷ điện Sơn La xây xong, đây sẽ là một khu vực hồ lớn có khả năng làm du lịch và sinh thái cũng như nuôi trồng thuỷ sản. Đây là ngã tư và nơi hợp lưu của suối Nậm Lay và suối Nậm Na đổ vào sông Đà. Thị xã Mường Lay nằm trên hai bờ của dòng Nậm Lay nơi tiếp giáp với sông Đà. Vì thế nó có vị trí rất đẹp và quan trọng, bởi từ đây là điểm khởi đầu của đầu mối đường bộ duy nhất đi Mường Tè, đây cũng là điểm kết nối của đường 12 từ Điện Biên đi Sìn Hồ – Lai Châu và đi Phong Thổ. Mường Lay là nơi tận cùng của quốc lộ số 6 Hà Nội – Hoà Bình – Sơn La – Tuần Giáo – Mường Lay. Đoạn từ Tuần Giáo đi Điện Biên là quốc lộ 279 dài 80 km. Đường quốc lộ 12 xuất phát từ Điện Biên đi Phong Thổ Lai Châu. Mường Lay là đầu mối của các quốc lộ giao cắt nhau như đi Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường, do đó đóng một vị trí rất quan trọng trong khu vực. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà một thời nó đã được chọn làm thủ phủ của tỉnh Lai Châu, xa hơn nữa là nơi đắc địa được Đèo Văn Long, một nhân vật nổi tiếng người Thái chọn làm địa bàn chính của mình và đặt dinh thự tại đây, trở thành một trung tâm của người Thái trong một giai đoạn lịch sử.

Chính hai bên bờ suối Nậm Lay nơi tiếp giáp sông Đà là vị trí của các cơ quan nhà nước, bệnh viện, trường học, cửa hàng bách hoá… thuộc tỉnh lỵ Lai Châu xưa. Sắp tới, đây sẽ là phần ngập nước của lòng hồ thuỷ điện sông Đà, nên đang được san lấp và chuyển lên cao hơn. Khu vực chợ Mường Lay hiện nay đang san lấp để xây một cầu nối hai bờ Nậm Lay phía trung tâm thị xã cũ. Khi chia tách hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, toàn bộ hữu ngạn sông Đà thuộc khu vực Mường Lay tỉnh Điện Biên, bên tả ngạn thuộc tỉnh Lai Châu. Mường Lay trở thành trung tâm huyện, còn thị xã Lai Châu chuyển về địa điểm hiện nay ở Tam Đường. Một trong những nguyên nhân chuyển địa điểm là do tách tỉnh và do nhiều năm, đặc biệt là năm 1990, tại Mường Lay đã xảy ra một trận lụt khủng khiếp làm ngập toàn bộ khu vực thung lũng này và gây ra thiệt hại to lớn về kinh tế. Tuy nhiên, khi không có lụt lớn thì khu vực đồng bằng của thung lũng ngã ba Nậm Lay và sông Đà là một khu đất rất trù phú để trồng cây nông nghiệp và đánh cá. Hiện tại đang có hai chiếc cầu treo và một cầu bê tông (khu vực chợ, gần khách sạn Lan Anh) nối liền hai bờ Nậm Lay để dân cư hai bên đi lại và sinh hoạt. Trong độ dài 5-6 km từ ngã ba Nậm Lay đổ vào sông Đà từ lâu đã là nơi sinh sống của các cộng đồng người Thái, Kinh, Hoa. Thời kì những năm 60 của thế kỉ XX nơi đây trở thành một trung tâm kinh tế và văn hoá khá sầm uất.

Do vị trí quan trọng của Mường Lay mà một thời gian dài nó đã từng là thủ phủ của tỉnh Lai Châu cũng như một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của một vùng Tây Bắc rộng lớn. Không phải ngẫu nhiên mà xưa kia đây là một địa điểm được người Pháp chọn làm vị trí chiến lược có tầm quan trọng về mọi mặt. Với vị trí nằm ở ngã ba sông Đà địa điểm này vừa có khí hậu mát mẻ vừa là điểm tiến lui đều thuận lợi, đồng thời nó án ngữ cả bốn mặt mà ai khống chế được vị trí này đều có lợi thế rất lớn về mọi mặt. Bởi vậy, trước khi có sự cai trị của người Pháp và thủ lĩnh người Thái thì đây là một nơi tập hợp nhiều cư dân Thái sinh sống và có truyền thống văn hóa lâu đời. Sau này do vị trí trung tâm của nó và sự tập hợp của các quan cai trị bản địa và Pháp nên Mường Lay nổi tiếng có nhiều cô gái xinh đẹp và những sản phẩm văn hóa đặc sắc như múa xòe hay các sản phẩm dệt thủ công phát triển. Truyền thống này còn được kéo dài mãi đến tận sau này.

II. Văn hoá dân gian sưu tầm ở Mường Lay

Về tên gọi Mường Lay

Truyền thuyết của người Thái kể rằng: Mường Lay xưa kia không phải đất của người Thái trắng. Người Thái Mường Lay hầu hết đều từ Phong Thổ xuống chứ không phải quê hương chính ở đây. Dân gốc ở đây chính là người Xá toàn là “u lý sào phay” của người Xá Cẩu ở. Họ đến đây trước người Thái nhưng cộng đồng của họ không lớn, người không đông. Họ sinh sống rải rác khắp thung lũng Mường Lay này, nhưng do ít người nên thế yếu. Ngọn núi trên cao của khu vực thị xã này gọi là Pái Lốt, là một ngọn núi có vị trí rất quan trọng đối với toàn bộ thung lũng. Chính người Pháp khi xâm chiếm vùng này đã lấy đó làm điểm cao nhằm khống chế toàn bộ khu vực. Bởi vậy, trong quá khứ, người nào biết sử dụng lợi thế của ngọn núi sẽ là người giành được ưu thế. Người Thái trước đây đã thấy được tầm quan trọng của vị trí này, cho nên, khi xảy ra cuộc tranh chấp giữa người Thái và người Xá để chiếm vùng đất này, người Thái đã biết tận dụng điều đó. Biết thế mình là kẻ từ ngoài vào, lực lượng không mấy mạnh hơn người Xá sở tại, người Thái Mường Lay bèn nghĩ ra kế đem 300 con dê bí mật tập trung ở trên núi này, họ đeo cho mỗi con dê 2 ngọn nến ở hai bên sừng. Vào một đêm tối trời, người Thái bèn châm nến trên hai sừng con dê và dồn chúng đi. Từ dưới thung lũng, người Xá nhìn lên, trong đêm tối 600 ngọn nến trên sừng dê rùng rùng đi sáng rực trong đêm. Người Xá tưởng đó là một đoàn quân với số lượng người vô cùng đông đảo và mạnh mẽ, một đội quân đang trùng trùng đi xuống thung lũng để đánh chiếm vùng đất của họ. Thế là, người Xá dưới thung lũng sợ quá bỏ chạy tán loạn chỉ mong sao cứu được cộng đồng và bảo tồn lực lượng. Thế là người Thái chiếm được toàn bộ thung lũng một cách nhanh gọn mà không hề phải gây hấn hay đổ máu. Bởi vậy đã có một truyền thuyết về tên gọi Mường Lay xuất phát từ đây, gọi là “Sắc play pay Mường Lay” (lay đi lay lại). Từ đó, thung lũng Mường Lay càng ngày càng trở nên một khu vực trù phú của nhiều đời người Thái. Đặc biệt dưới thời cai quản của Đèo Văn Long, với sự hỗ trợ của người Pháp, nơi đây trở nên một khu vực sầm uất và phát triển cả về kinh tế lẫn văn hoá. Di tích khu nhà của Đèo Văn Long hiện nay đang được xem xét tu bổ để trở thành một di tích kiến trúc, lịch sử ghi dấu ấn một giai đoạn lịch sử của vùng đất này, dù bây giờ tách tỉnh nó thuộc đất Lai Châu, song về mặt văn hoá và lịch sử không thể nào tách nó ra khỏi toàn bộ khu vực Mường Lay hiện tại. Tương tự như vậy là di tích nhà tù thời Pháp thuộc và đặc biệt là tấm bia Lê Lợi, ghi dấu chân của người anh hùng  Lam Sơn ở cõi biên cương phía Bắc.

Tục làm then của người Thái Mường Lay

Then là một sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian của đồng bào các dân tộc phía Bắc trong đó có người Thái. Xưa kia những người làm then thường kiêm luôn cả việc chữa bệnh cho người ốm. Bên cạnh việc chữa bằng thuốc, người Thái cho rằng con người là sự kết hợp hài hoà của linh hồn và thể xác. Thân thể con người chứa rất nhiều hồn, mà khi các hồn ấy mải chơi, bực mình hay giận dỗi mà bỏ đi thì người đó sẽ sinh ra ốm đau bệnh tật. Vì vậy, phải làm sao đưa được hồn về thân thể thì người ấy sẽ khỏi ốm, muốn làm được việc này phải nhờ vào thầy then, thầy then bên cạnh việc cúng là chơi những bản nhạc kèm theo nhằm vỗ về, kêu gọi, thậm chí là đe doạ… để lôi kéo hồn trở về thân thể cho người ốm khoẻ lại. Những bài hát then thường dùng những lời hay, ý đẹp và làn điệu khêu gợi hấp dẫn để các hồn bớt giận dỗi hay hết mải chơi mà trở về. Thực ra, có một phần nào đó là sự chạy chữa bằng tâm lý cho người ốm thông qua các làn điệu và lời ca của những bài then. Những bài hát then đã đem lại cho người ốm sự ổn định, xoa dịu nỗi buồn và đưa họ trở về trạng thái cân bằng. Như thầy then nói: “Người ốm đau thấy mình có giọng hát hay, tình cảm nên họ nghe giọng hát của mình mà cảm thấy dễ chịu và khỏi bệnh. Họ cảm động có lúc khóc lóc. Nhiều người đi Viện chữa bệnh không khỏi nhưng về nhà lại dùng then chữa mà khỏi bệnh”. Cho nên khi hiểu được như vậy thì sẽ tránh được những suy nghĩ cứng nhắc cho rằng đó là những hoạt động mê tín dị đoan. Từ đó nhìn nhận được những giá trị văn hoá của hiện tượng này, ấy là chưa kể đến các giá trị nghệ thuật của nó trong âm nhạc, ca từ và trang phục… Người Thái gọi là làm then và người làm then ấy gọi là thầy then.

Chúng tôi xin giới thiệu một trong những thầy then, đó là thầy then Vàng Văn Thức ở tổ 13, phường Na Lay, thị xã Mường Lay hay còn gọi là khu cơ khí. Then Thức là con bà Lò Thị Khuý, người Thái, bà cũng là một thầy then nổi tiếng trong vùng có rất nhiều học trò. Then Thức tự học là chính chứ ít khi phải mẹ dạy. Trong thời gian đi theo mẹ, then Thức tập đàn từ năm 14-16 tuổi và tập hát then. Ông đã đi cúng cho nhiều người ở nhiều nơi và cũng tham gia nhiều hoạt động văn nghệ của địa phương.

Theo ông, có ba bài then nếu làm đúng và đầy đủ theo bài bản của nó thì phải hát từ 8 giờ tối đến 2-3 giờ sáng mới xong. Trong quá trình hát có nghỉ giải lao ngắn hai hoặc ba lần.

Người làm then thường cúng các vị tổ then vào các ngày mồng một, rằm hàng tháng và tết. Lễ cúng gồm gà 1 con, bánh trái, hoa quả. Trước khi đi làm then ở đâu đó họ đều có cúng tổ then để cầu đi làm cho thành đạt và có kết quả. Mỗi lần đi làm then như vậy nếu có kết quả thì thường sau ba ngày người ốm mà khỏi họ sẽ đến tạ ơn thầy then. Khi đến, người ta đem quà cáp, hoa quả, bánh kẹo, tiền từ 50,60 hay 100 ngàn đồng… tuỳ tâm. Then Thức kể rằng nơi ông đi cúng xa nhất là đến Quỳnh Nhai, Sơn La, Điện Biên, Mường Tè, Hoa Luông. Những lần như vậy, chủ nhà đem xe về đón thầy đi khi xong lại đưa về. Theo thầy then Thức:

–   Thường cúng then, theo lý phải có ba con gà, đó là quy định. Gà phải đầy đủ có đầu có cổ… Phải đủ lý như thế, nhà chủ chuẩn bị xong thì mời then. Trong khi làm người ta cũng kiêng kị, ví dụ chuẩn bị làm nhưng trước khi đi mời thầy thấy có con chim sa vào nhà cũng không đi nữa, xem bói bảo có hạn cũng không làm nữa.

–   Bàn thờ của thầy then có hai bàn, một thờ bồ tát, một thờ tổ then. Còn lại, bàn thờ của gia đình để ở trong nhà.

–   Thầy then ngày nay cũng có điện thoại nhà riêng, điện thoại di động để tiện việc liên lạc, di chuyển khi đi làm then.

Nội dung một cuộc làm then: bằng những bài cúng và lời hát then của mình, thầy then phải lên trời dụ dỗ hồn về. Trên đường đi có lên thuyền, lên ngựa để đi về. Trên đường đi cũng gặp nhiều trắc trở, gian nan, vất vả phải vượt qua… Toàn bộ cuộc hát then kể về chuyến đi ấy.

Như vậy, gạt bỏ những khía cạnh mê tín, thì việc làm then của người Thái rõ ràng có những giá trị của nó. Ngoài việc chữa bệnh then còn được dùng trong các nghi lễ cầu sức khoẻ cho trẻ con tránh những điều không may, những khi giỗ tết, lễ hội, giải hạn…, chỉ trừ đám ma là không có. Ngoài những giá trị tín ngưỡng, nghệ thuật thì then còn góp vào những sinh hoạt văn hoá của người Thái trong đời sống thường ngày của họ. Qua đó giữ gìn được bản sắc văn hoá của dân tộc Thái trong bức tranh chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Rồi đây, bên cạnh những sinh hoạt hát then của người Tày ở vùng Đông Bắc, chúng ta sẽ có thêm then của người Thái Tây Bắc trong khuôn viên của Làng văn hoá các dân tộc Việt Nam.

Một số giá trị văn hóa dân gian Mường Lay qua khảo sát ở bản Xá Đán và nghệ nhân Lò Văn Xanh

Ông là một trong những nghệ nhân nổi tiếng của vùng Mường Lay đến thời điểm năm 2008. Năm đó ông đã vào tuổi 65, đang sống tại bản Xá Đán, phường Na Lay, thị trấn Mường Lay. Ông Xanh đang sống cùng vợ là Lường Thị Ân và vợ chồng người con út là Lò Văn (27 tuổi) và vợ là Lường Thị Thương (25 tuổi) là người Thái ở Mường Chà, bản Ban, xã Mường Mùn. Người con trai là cán bộ Phòng Văn hóa huyện Mường Lay, còn vợ anh ta ở nhà chăm sóc con cái và làm ruộng vườn của nhà. Họ vẫn giữ được hầu như toàn bộ các giá trị văn hóa của dân tộc mình dù sống giữa một thị trấn đang có tốc độ đô thị hóa tương đối nhanh, nhất là từ khi có dự án thủy điện Sơn La. Khi di chuyển theo kế hoạch của dự án, gia đình ông Xanh sẽ chuyển lên khu cơ khí trên sườn núi, cách chỗ ở hiện tại chừng 200m trên sườn núi cao. Còn hiện tại (tháng 12-2008) nhà ông Xanh nằm ngay trên mặt đường 12 gần đến chợ thị xã. Khi hát then, ông có thể vừa chơi đàn vừa hát, tuy nhiên thường có ông Điêu Văn Sàng, 72 tuổi, đệm đàn cho ông Xanh hát. Hai bài hát mà chúng tôi ghi chép được là:

1. Ca ngợi Mường Lay

Bài hát theo điệu dân ca Thái kể về cảnh đẹp của khu vực Mường Lay với dòng suối Nậm Lay và con sông Đà hùng vĩ chảy qua đây. Phù sa của sông Đà và dòng suối bồi đắp nên thung lũng Mường Lay trù phú với những bãi bồi màu mỡ. Tại đây người Thái trồng cấy các loại hoa màu đem lại một nguồn thu hoạch lớn phục vụ cho đời sống của họ. Ngoài ra phong cảnh hữu tình trên núi dưới sông cung cấp cho con người cả sản vật của núi rừng lẫn sông suối. Quang cảnh thì nên thơ, trữ tình với ngã ba sông Đà suối Nậm Lay và không khí trong lành với nhiệt độ trung bình hàng năm vào loại dễ chịu nhất trong khu vực này ở Điện Biên – Lai Châu.

2. Then gọi hồn cho người ốm

Người Thái quan niệm người ốm là do hồn của họ giận dỗi hay sợ hãi mà bỏ đi. Bởi vậy, khi ốm phải làm then để gọi hồn về nhập vào mới khỏi được. Muốn làm như vậy phải nhờ đến thầy then. Thầy then là người hiểu biết phong tục, biết các bài hát và biết cách gọi hồn về. Đặc biệt, thầy then phải là người biết hát rất hay, bởi đây là một trong những yêu cầu quan trọng nhất để vỗ về hồn trở lại xác người. Để làm lễ này, người nhà phải sắm sửa một lễ để thầy then làm lễ cúng và hát mời gọi hồn về. Lễ vật không lớn, chỉ là một con gà và các thứ hoa quả với trứng luộc. Thầy then làm lễ và hát để đi tìm hồn về. Theo ông Lò Văn Xanh thì hệ thống các bài hát then có đầy đủ các bài dẫn đường để thầy then đi tìm hồn về cho người ốm. Tùy theo hồn của mỗi người và tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh mà thầy then phải vận hết sức lực và lời hát của mình để đưa được hồn về. Theo lời các thầy thì hồn người nhiều khi như trẻ con rất hay giận dỗi, do đó mà phải biết dỗ dành, chèo kéo, thậm chí đôi khi phải dọa dẫm thì hồn mới chịu nghe lời thầy then mà về. Nhưng đặc biệt nhất là hồn rất thích nghe hát, do vậy tùy thuộc vào thầy then nào có giọng hát tốt, bài hát hay thì dễ chiếm được tình cảm của hồn mà mau chóng đưa được hồn về nhanh nhất. Vì thế, thầy then thường là người có giọng hát rất tốt. Bài hát đi tìm hồn cho ta thấy người đi tìm phải đi qua rất nhiều sông, núi, suối và rừng để tìm xem hồn đang lang thang nơi đâu. Khi gặp được hồn thầy then chào hỏi và tìm hiểu nguyên nhân vì sao hồn ra đi, sau đó thuyết phục hồn trở về với người ốm. Thầy then vừa khuyên nhủ, vỗ về, dỗ dành, hứa hẹn, vừa dọa dẫm hồn đề hồn chấp thuận trở về. Trên đường đi gặp nhiều trở ngại đường xa, vất vả, trèo đèo, lội suối, qua sông… thầy then luôn là người đồng hành và giúp đỡ hồn để vượt qua mọi trở ngại đó. Bằng tiếng hát của mình thầy then cho người nghe thấy các nơi mà hồn đã đi qua, phải trải qua những gì, phải làm những gì để thoát mà trở về. Thực chất đó là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian hết sức nhân văn và có tính nghệ thuật cao. Không chỉ người ốm, mà cả những người khỏe ngồi bên cũng thấy cảm kích và say mê với những lời ca, tiếng nhạc của thầy then. Có thể thấy rằng đây là một liệu pháp tâm lý mà y học hiện đại ngày nay đã khẳng định vai trò quan trọng của nó. Trừ một số bệnh hiểm nghèo, còn lại các bệnh khác khi người bệnh được điều trị bằng tâm lý trị liệu sẽ có lợi ích lớn. Ta đều biết rằng, tâm lý người ốm thường lo lắng về bệnh tật của mình. Do vậy, đôi khi bệnh không đến nỗi nào, song vì quá lo thành ra lại ốm thêm. Vì vậy, liệu pháp chữa bệnh bằng hát then đã đem lại hiệu quả không nhỏ. Người ta say mê những lời hát, cộng với sự tin tưởng vào sự cao tay của thầy then, làm người bệnh yên tâm vui vẻ, phấn chấn mà đôi khi con bệnh lùi đi. Đó là một thực tế. Điều này giải thích vì sao các thầy then được trọng vọng và vì sao chữa bệnh bằng then vẫn được tồn tại ngay cả khi người ta đi bệnh viện. Ở góc độ văn hóa thì những nghệ nhân hát then nổi tiếng còn giữ trong họ cả một gia tài văn hóa dân gian của dân tộc họ. Cho nên, khai thác được kho tàng đó là giữ gìn được một tài sản quý giá của mỗi dân tộc.

Theo nghệ nhân Lò Văn Xanh, ông học nghề từ ông Hoàng Tam Khọi, là một người nổi tiếng ở vùng này trước đây. Thầy Khọi vừa là thầy cúng nổi tiếng vừa là người có giọng hát then say đắm đến mê hồn người nghe. Do vậy, khi ông làm then gọi hồn người ốm rất dễ đưa được nó về và làm cho người ốm khỏi và tỉnh táo lại. Một số nghệ nhân còn nói rằng then tự nó đến với mình (như là trời phú cho vậy), tuy nhiên đó chính là sự nhập tâm của những người có năng khiếu về nghệ thuật của các thầy then.

Ngoài ra, cũng theo nghệ nhân Lò Văn Xanh cho biết về sự khác nhau của người Thái đen và Thái trắng theo quan niệm của người Thái ở vùng Mường Lay này thì:

Thái đen khác Thái trắng là Thái đen để tằng cẩu, còn Thái trắng không để. Có sừng ở giữa là có chồng. Chuẩn bị lấy chồng nhà chồng sắm cho cái mài mảu để cắm vào. Bỏ nhau mà có 1, 2 con hoặc không con thì tằng cẩu nghiêng sang bên trái, tằng cẩu nghiêng sang bên phải là chồng đã chết. Còn người Thái trắng phải hỏi thì mới biết là đã có chồng hay chưa. Ca dao Thái có câu: “Không biết thì phải hỏi, muốn đẹp thì phải tham khảo người già”.

Về các lễ tết mà người Thái theo thì nghệ nhân cho biết:

Ngày xưa, người Thái trắng ăn tết theo người Hoa kiều, Thái đen không ăn tết. Ngày 3/3 thanh minh, ngày 15/4 Thái đen gọi là Xin Hớt, mời thầy mo cúng xem, mổ trâu mổ bò mời bà con đến dự. Thái trắng ăn tết gọi là Kin Chiêng, ngoài 15 thì gọi là Kin Pang, chỉ để người làm mo đi làm lý cho người ta. Kin Pang làm các thứ trồng một cây hoa giữa nhà, những con bệnh về với thầy gọi là mẹ (bố) nuôi (ải ly hay ỷ ly).

Các lễ có:     – Tết Nguyên đán

– 3/3 Thanh minh đi cúng bái sửa soạn mộ

– 5/5 cúng ở nhà theo người Kinh

– 7/7 Kin Chiêng là tết chính của người Thái

– 9/9 Thanh minh

To nhất là 7/7 nhà nào cũng phải có một đầu lợn, nhà giàu mổ bò, trâu ăn trong ba đến năm ngày. Nhà nào nhà ấy ăn, nếu có thì mỗi ngày mổ một lợn, mời tất cả họ hàng, láng giềng. Làm các loại bánh chưng, khẩu chí chép (như một loại bánh rán), xôi có hai loại là khẩu cắn và khẩu dăm (nhuộm màu).

Kết luận

Vốn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của một vùng (thủ phủ tỉnh Lai Châu cũ) nên Mường Lay là nơi tập trung sinh sống của người Thái, người Kinh và một số dân tộc khác. Qua quá trình giao lưu và tiếp biến, văn hoá của người Thái ở đây đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, về cơ bản họ vẫn giữ được những giá trị truyền thống của mình như tục làm then và những nghi lễ khác. Đặc biệt trong những năm gần đây, khi phong trào hồi phục lại các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc, thì nhiều sinh hoạt văn hoá dân gian của người Thái cũng như các dân tộc khác được khởi sắc. Vì vậy, việc điều tra, ghi chép lại những giá trị văn hoá ấy là điều nên được thực hiện càng sớm càng tốt.

(Theo: Thông báo văn hóa 2010, Nhiều tác giả, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *